Kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư - Phần 1 -nguyenhoanghy.com

0

 

Kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư - Phần I

✅ Nhiều nhà phong thủy chính tông Hoa, Việt nghe thiên hạ đồn đãi, đều không ngại vất vả, tốn kém, tìm đến tận nơi quan sát khu vực có mộ phần tổ phụ họ Nguyễn. Hết thảy đều đồng ý tán thưởng sự tinh tế của cổ nhân: người đã có cặp mắt tinh đời, chọn được thửa đất hiếm có ấy, vì theo sách địa lý, đó chính là kiểu đất Phụng-Hoàng Hàm Thư, mà tám ngôi tổ mộ đều nằm vào đúng giữa bụng chim thần.
GIAI THOẠI VỀ KIỂU ĐẤT PHỤNG HOÀNG HÀM THƯ
VÀ 8 NGÔI MỘ CỔ TẠI LÀNG BÁO VĂN
 


Ngũ bách niên chi tiền, mạch tại thượng,
Ngũ bách niên chi hậu, mạch tại hạ,
Vị thùy vô mục, quả vô mục dã"


        Tập gia phả với tám ngôi tổ mộ 

        Họ Nguyễn ở làng Báo Văn là một danh gia, lệnh tộc, không biết phát tích từ đời nào, nhưng người quanh vùng vẫn thường đồn đãi với nhau rằng: từ trên một trăm năm nay, họ Nguyễn ở làng Báo Văn, chẳng đời nào là không có người làm quan to, hay đại hào phú, chủ nhân ông những ruộng vườn thẳng cánh cò bay, đất đai chồn chân, ngựa chạy.
 

   
       
Thiên hạ còn nói nhiều đến tám ngôi tổ mộ của họ Nguyễn táng song song ở giữa cánh đồng vùng Mông Sàng, Mông Phụ mà người ta tin chắc đó là những ngôi mả kết phát rất to tát, lâu dài.

        Nhiều nhà phong thủy chính tông Hoa, Việt nghe thiên hạ đồn đãi, đều không ngại vất vả, tốn kém, tìm đến tận nơi quan sát khu vực có mộ phần tổ phụ họ Nguyễn.

       Hết thảy đều đồng ý tán thưởng sự tinh tế của cổ nhân: người đã có cặp mắt tinh đời, chọn được thửa đất hiếm có ấy, vì theo sách địa lý, đó chính là kiểu đất Phụng Hoàng Hàm Thư, mà tám ngôi tổ mộ đều nằm vào đúng giữa bụng chim thần.

        Nhưng vào đầu mùa thu năm Ất Mùi (1775) một ông già đầu, râu, tóc bạc, quần vải, áo nâu, bề ngoài trông rất tiều tụy, lam lũ, tìm đến tận nhà quan Án sát họ Nguyễn ở làng Báo Văn, để trình bày về sự nhận xét riêng của lão về tám ngôi tổ mộ.

        Hồi ấy quan Án Sát tuy đã cáo lão hồi hưu, song dinh thự vẫn có người canh gác cẩn mật, không kém gì lúc chủ nhân đang còn tại chức.

        Tên gia nhân gác cửa, thấy khách lạ hình dung cổ quái, y phục rách vá tứ tung, thì có ý khinh rẻ, yên trí là khách lạ, nếu không định đến xin tiền quan Án, thì hẳn cũng chỉ tới cầu cạnh một ân huệ chi đó, chứ dáng điệu ấy, người ngợm ấy thì hỏi còn có gì đáng bàn chuyện quan trọng về đất cát mồ mả với chủ nhân hắn, vốn là một vị đường quan, danh tiếng ở Bắc Hà!

        Nghĩ vậy rồi, hắn liền dơ tay xua đuổi ông già, một mặt khép chặt hai cánh cổng gỗ lim nặng nề, khinh khỉnh nhìn khách lạ, như nhìn một quái vật hiểm nguy, nhơ nhớp!

        Khách lạ chỉ hơi nhíu mày, ngỡ ngàng về cách xử sự phũ phàng của tên gia nhân, nhưng chỉ thoáng qua một chút, lão lại bình thản, mỉm cười ung dung nói lớn:

        - Chú em đừng nên khinh người, rẻ của quá như vậy? Lão đến đây với tất cả lòng thành khẩn, kính mến đức độ, uy danh của Cụ lớn nhà, chứ nào phải tới cầu xin ân huệ, tiền bạc chi đâu, mà chú em nỡ tâm xua đuổi cho đành?

        Lão nói thiệt: chú em nếu muốn cho Cụ lớn nhà đời đời vinh hiển, kế thế công khanh, thì hãy kíp vào bảo với Cụ lớn cho lão được diện kiến, còn nếu không thì thôi, lão càng khỏi phải tốn công, nhọc sức...

        Tên gia nhân vẫn không thay đổi ý định: cương quyết đóng chặt cổng dinh, và lớn tiếng quát mắng:

        - Lão già vô lý quá! Khi không tới đây, bày đặt chuyện đất cát lôi thôi. Nếu không khôn hồn cút mau đi lỡ ra đến tai Cụ lớn thì lão chắc chắn sẽ bị ăn đòn nứt thịt!

        Đang lúc hai người điều qua tiếng lại, thì Cụ lớn từ tư thất bước ra, thấy vậy, vội tiến thẳng đến gần tên gia nhân, hỏi vội:

        - Chi đó bây! Nếu người ta lỡ độ đường thì đem ra chút ít tiền gạo, đãi người ta, chứ việc chi mà lớn tiếng vậy?

        Khách lạ chưa kịp nói gì, thì tên gia nhân đã xun xoe tiến đến trước mặt quan Án, vái lạy, rồi tằng hắng liên tiếp mấy cái liền, mới rụt rè cất được tiếng:

        - Bẩm Cụ lớn, lão già này không biết từ đâu tới đây, cứ nhất định một hai đòi vào yết kiến Cụ Lớn cho kỳ được, để trình bày đất cát mồ mả chi đó. Con đã đem tiền gạo cho lão và đuổi lão ra, nhưng lão ngang bướng lắm, cố tình muốn ăn vạ đấy ạ.

        Quan Án Sát liếc nhanh cặp mắt sâu thẳm, sau lớp kiếng trắng, gọng bạc về phía khách lạ, bất giác phát sanh lòng kính phục con người bần hàn, lam lũ vô cùng, vì qua lớp y phục bẩn thỉu, vá rách, vị hưu quan ở làng Bác Văn đã như mường tượng thấy được một vẻ cao quý khác thường, ẩn hiện trên khuôn mặt già nua, cằn cỗi, mà bộ râu ba chòm bạc phơ, in hệt mớ cước trắng của khách lạ, đã làm nổi bật hơn nữa, nét phong sương của một kẻ giang hồ phiêu lãng!

        Quan Án nguýt dài tên gia nhân lỗ mãng, dơ tay ra hiệu cho nó lui vào phía trong, đoạn thong thả đi ra cổng, đến bên lão già niềm nở nói:

        - Lão trượng phu chớ chấp kẻ thất phu vô lễ, và xin mời vào chơi trong nhà cho tiện đàm đạo.

 

 

        Khách lạ gật đầu, có ý thỏa mãn, ung dung xách khăn gói, kéo lê chiếc gậy trúc dài gần hai sải tay, đầu uốn cong thành hình một con cú đứng co một chân, cánh xoè rộng hẳn ra như muốn lấy đà tung bay, theo thế "Anh hùng độc lập", rồi thản nhiên đi ngang hàng với vị hưu quan, cùng bước qua một cái sân gạch Bát Tràng, rộng rãi, vuông vắn, để lên thềm đại sảnh.

        Ngôi nhà chính của quan Án Sát hưu trí trông bề thế, cổ kính, như được xây cất từ mấy mươi đời trước bằng các thứ danh mộc, hầu hết đều chạm trổ cực kỳ công phu, tỷ mỉ do những thợ mộc tài hoa chuyên nghiệp ở các vùng Hà Nam, Ninh Bình đảm trách.

        Tư thất kiến trúc theo lối Đông Phương cổ kính, tấm mái cong vút như sừng trâu, do mấy hàng cột lớn tay ôm, bóng lộn như gỗ mun, chống đỡ, được chia ra làm năm gian lớn, bài trí toàn đồ cổ ngoạn gia bảo, sập gụ, tủ chè, đỉnh đồng lớn, giá lọ bộ, chóe sứ, lọ Giang Tây, ánh vàng sơn rực rỡ từ những chiếc hoành phi, câu đối, sơn son thếp vàng, lộng lẫy tỏa ra, càng tăng thêm, màu sắc, huy hoàng, nguy nga, tráng lệ cho toà đại sảnh.

        Quan Án Sát họ Nguyễn mời khách lạ ngồi trên chiếc cẩm đôn phủ nệm bọc gấm điều trước một án thư bằng gỗ gụ, dưới một cặp tán tía, lọng vàng, treo cao gần sát mái nhà.

        Trên tường, một thanh bảo kiếm, chuôi ngà, vỏ bạc, nằm vắt chéo, giữa một đôi tay thước khảm xa cừ có tua đỏ dài lòng thòng, bên cạnh cái trống chầu sơn đỏ và đôi tù và làm bằng hai con ốc cực lớn, bóng lộn như sừng.

        Quan Án Sát ngã người trên chiếc sập gỗ chân quỳ, tựa tay lên chồng gối xếp màu hoàng anh, mắt tuy lơ đãng nhìn ra ngoài sân, song kỳ thực, vẫn luôn luôn chăm chú theo dõi từng nét biến chuyển trên khuôn mặt nhăn nheo của người khách lạ, đoạn vừa vuốt râu, vừa vui vẻ hỏi người đối diện:

        - Nghe bày trẻ nói: lão trượng có nhã ý đến chơi để bàn chuyện về môn phong thuy.

        Hạ quan rất hoan nghênh và sẵn sàng kính cẩn nghe lời vàng ngọc.

        Rất mong lão trượng đừng tiếc lời dạy bảo, thì không những may mắn cho hạ quan mà cả dòng họ Nguyễn ở làng Báo Văn cũng được đội ơn hà hải...

        Khách lạ ngạo nghễ nói:

        - Lão đi qua vùng này, tình cờ được thấy một khu đất cực quý ở ngay ngoài cánh đồng làng ta. Lão hỏi thăm, thì bà con quanh đấy chỉ cho lão coi tám ngôi cổ mộ, và bảo rằng đó là phần mộ của tổ phụ đại nhân.

        Vì vậy lão mới tìm tới đây, không ngoài ý muốn, được hầu chuyện với đại nhân về môn phong thủy.

        Quan Án Sát chặn ngang:

        - Lão trượng nói sao?

        Mấy ngôi mộ của dòng họ Nguyễn, táng tại cánh đồng xứ Cốt Đang, làng Báo Văn, cũng đã khá lâu ngày, không hề xảy ra sự nguy hại chi hết, sao giờ đây lão trượng lại có ý thắc mắc? Xin hãy vui lòng cho lão phu biết rõ lý do?

 


        Khách lạ không trả lời thẳng câu hỏi của vị hưu quan, mà lại nói lãng qua chuyện khác:

        - Trước khi bàn về mấy ngôi cổ mộ, lão muốn biết sơ qua ít điều thắc mắc: chẳng hay đạo nhân bình thường có chuyên khảo cứu về khoa địa lý không?

        Quan Án sát nhìn khách lạ, như cố tìm hiểu xem trong sự hiếu kỳ của người đối thoại, có xen lẫn một dụng ý gí, khả dĩ gây được thiệt hại cho dòng họ Nguyễn nói chung, và cho bản thân quan Án Sát nói riêng.

        Trên khuôn mặt dày dạn phong sương, đen cháy vì nắng mưa dầu giãi, đôi mắt sâu thăm thẳm nằm dưới lớp kiếng lão của khách lạ, vẫn luôn luôn tiết ra một tinh thần khẳng khái trung thực: nền tảng căn bản của tín đồ Khổng Mạnh, khiến cho bất cứ ai được tiếp xúc, dù chỉ mới là lần đầu tiên, cũng phải chân thành kính trọng, cảm mến, coi như bậc trưởng thượng trong gia đình.

        Vốn nề nếp nho phong, trâm anh thế phiệt nên vị hưu quan nhận thấy ngay được nét tinh hoa đáng quý ấy trên gương mặt quắc thước của khách lạ.

        Vì vậy, chẳng một chút ngại ngần, nghi kỵ, quan Án Sát sẳn sàng cởi mở ngay niềm tâm tư, ấp ủ thầm kín trong kẽ phổi, khe gan từ bao lâu nay, chưa có cơ hội nào thuận tiện, cũng như chưa gặp được bạn tri âm nào tâm đầu ý hiệp để giải tỏ can tràng:

        - Ngay từ khi còn để chỏm, ngày ngày cắp sách đến tập làm văn tại trường Cụ Thám Hoa ở làng dưới, lão phu đã đặc biệt chú ý đến môn phong thủy, mỗi khi thấy người quanh vùng đem trầu rượu, lễ vật đến nhờ Cụ Thám Hoa tìm đất giúp.

        Có nhiều lần được Cụ Thám cho theo hầu, lão phu thường nhìn ngắm say sưa chiếc tróc long hàng giờ không biết chán, nâng niu cái la kinh, thận trọng còn hơn một người chơi đồ cổ săn sóc đôi lọ từ đời Tống, đời Đường, đến nỗi thấy lão phu ham mê môn phong thuỷ, Cụ Thám đã vui vẻ giảng dạy cho lão phu biết sơ qua về cách phân kim, án hướng, thế nào là án nga my, thế nào là tay long, tay hổ, thế nào là thuận nghịch, thế nào là quán khí.

        Nhờ đấy, lão dù không am tường, thấu triệt một cách tinh vi khoa học, huyền bí, kỳ diệu ấy, cũng có thể hiểu đại cương sự chuyển vận của long mạch, để tìm trúng chánh huyệt tại các khu đất quý.

        Khách lạ không chờ cho quan Án dứt lời, liền hỏi ngang:

        - Thôi thế cũng tạm đủ! nhưng có điều lão vẫn chưa hiểu: Vì nếu đại nhân đã biết rành mạch môn địa lý thì sao lại không nhận chân được sự sai lệch của tám ngôi tổ mộ ở xứ Cốt Đang?

        Vị hưu quan có vẻ sượng sùng, vội dơ tay phác một cử chỉ ngăn chận rồi nói nhanh:

        - Thì lão phu có dám nhận mình là am hiểu tinh vi môn địa lý đâu? Lão phu sở dĩ biết sơ qua chút ít, cũng là do sự chiếu cố của Cụ Thám Hoa, lúc còn đi học, thấy lão phu mê say khoa phong thủy, người mới giảng dạy đại cương cho lão phu nghe, sự kỳ bí, huyền diệu của mạch đất, có thế thôi! Nào lão phu có biết gì hơn.

        Vậy nếu những ngôi tổ mộ kia có chi sai lệch, xin lão trượng vui lòng chỉ dạy, lão phu nguyên tạc dạ, ghi xương, thề trọn đời không dám quên ơn lão trượng.

        Khách lạ ha hả cười to, đầu gật lia lịa như vô cùng đắc ý:

        - Được, Lão xin nhận lời giúp đỡ đại nhân.

 

     
        Đồ không có mắt 
        Nhưng công việc xem xét mộ phần, phúc lại! Lúc tới tám ngôi mả, không phải là việc làm một sớm, một chiều mà xong được?

        Phải mất ít ra hàng tháng mới mong tìm được tất cả mọi sự khuyết điểm, không những ở bề ngoài căn cứ theo hình thức mộ phần, mà còn dùng thuật riêng đặc biệt bí truyền, để xem xét lòng huyệt cũng như hài cốt an táng ở trong tiểu...

        Công việc phức tạp ấy, không phải một vài hôm hay năm, bảy bữa mà xong được đâu? Đại nhân là bậc danh sĩ, quán thông lý, số, y, nho, lại thấu triệt được cả lẽ huyền vi, kỳ bí của môn phong thủy, thì hẳn không cho lời lão là viễn vong, vu khoát.

        Quan Án Sát thong thả đứng lên, hướng về phía khách lạ, vái dài, chậm rãi nói:

        - Được nghe lời giảng dạy vàng ngọc, lão phu nhu kẻ đang lần mò đi trong đêm tối, bỗng gặp được ánh đuốc soi đường!

        Quả thật là vạn hạnh.

        Lão phu tin rằng cuộc sơ kiến bữa nay, do lòng Trời đưa lại, cũng là duyên kỳ ngộ từ kiếp trước, nên mới run rủi cho lão phu gặp đặng qúy nhân, để nghe lơi dạy bảo của bậc cao hiền, hầu biết đường họa phúc và lẽ thạnh suy của đời mình!

        Vậy nhân dịp này, nếu lão trượng không chê hàn xá thô lậu, lão phu xin kính mời lão trượng tạm ngừng gót ở chơi tệ xá ít ngày, cho lão phu có cơ hội thuận tiện học hỏi thêm đạo lý cao siêu của thánh hiền, nhất là sự nhiệm mầu của khoa địa lý.

        Khách lạ vui vẻ ngắt lời:

        - Đại nhân bất tất phải quá khiêm, lão xin hoàn toàn tuân lệnh đại nhân sai khiến. Vả lại, lão không đến đây thì thôi, chứ một khi đã tới thăm quý phủ, được đại nhân dùng biệt nhãn đón tiếp, không phân biệt giàu nghèo, quý tiện, lại cũng chẳng câu nệ bức tường ngăn cách quan, dân, khiến cho tấm thân già nua, vô dụng gần kề miệng lỗ này được tiếp xúc với bậc quý nhân, trau dồi thêm cho mớ kinh nghiệm cằn cỗi thêm phần quảng bác thì há chẳng phải là một cơ hội hãn hữu muôn thuở nhất thời cho lão ư ?

        Vị hưu quan tươi nét mặt, vui mừng đáp rằng:

        - Được lão trượng nhận lời, lão phu thật vô cùng cảm kích. Vậy trong thời gian tạm lưu tại tệ xá, nếu có cần gì, xin lão trượng cứ truyền gọi gia nhân, sai khiến chúng và coi chúng như nô bộc của lão trượng.

        Khách lạ tiếp lời:

        - Xin đa tạ thịnh tình của đại nhân. Có điều lão phu phải cần thưa trước: ngay từ sáng mai, kính xin đại nhân cho người hướng dẫn lão đi thăm lại một lần nữa, cánh đồng có an táng tám ngôi tổ mộ của dòng họ nhà ta, và nếu không có chi bất tiện, xin đưa lão đi thăm luôn cả các ngôi mộ khác ở trong họ nữa.

        Có thế, lão mới có thể quyết đoán đích xác được sự kết phát hay nguy hại của của các ngôi tổ mộ.

        Quan Án Sát mỉm cười, ngăn cản:

        - Lão trượng đi đâu mà vội vàng quá thế ? Xin hãy thong thả dạo thăm phong cảnh trong vùng ít bữa, rồi sau đấy, sẽ lưu ý đến mồ mả, đất cát, tưởng cũng không phải là quá muộn.

        Ông già, lắc đầu, tỏ ý bất mãn:

        - Đại nhân quá thương, muốn cho thân già này được ung dung, nhàn nhã, tấm tình tri ngộ ấy, lão xin ghi sâu trong phế phủ. Nhưng số lão vất vả, ngay từ khi ra đời, vẫn phải luôn luôn vật lộn với sinh kế từng khắc, từng giờ, chẳng mấy lúc được thảnh thơi, rỗi rãi!

        Do đấy, nếu cho lão ngồi yên hưởng lạc, chỉ những hai bữa liền, là thế nào lão cũng bị đau đớn gân xương, chân tay ngứa ngáy, cơ hồ như có một mãnh lực kỳ bí thúc đẩy, lão phải chạy nhảy, hoạt động hăng hái hơn, để giữ cho sức khỏe được dồi dào bền bỉ lâu dài!

        Vị hưu quan chợt nhìn trên án thư có đủ đồ văn phong tứ bảo. Nhớ tới một việc quan trọng, nên vội đưa tay cầm một cuốn sách bìa sơn đen dày cứng, rồi nhích mình qua phía khách lạ, đoạn hạ thấp giọng nói vừa đủ nghe:

        - Lão phu có một điều tâm sự, liên can đến hạnh phúc, vận mạng của cả dòng họ Nguyễn ở làng Báo Văn, mà từ khi khôn lớn tới bây giờ, lão phu vẫn nhất định chôn sâu trong phế phủ, chưa hề dám thố lộ với một ai, kể cả những bạn bè, hay họ hàng thân thích!

        Số là trong gia phả của tiền nhân lưu lại, từ đời Hậu Lê, có ghi một lời ký chú, đinh ninh dặn lại con cháu rằng:

        "Tám ngôi tổ mộ, an táng tại xứ Cốt Đang thuộc cánh đồng làng Báo Văn, tuy kết phát, nhưng muốn cho dòng họ hưởng phúc lộc lâu dài, thì năm Ất Mùi (1775) phải nhờ thầy địa lý chính tông xoay lại hướng mộ phần. Nếu không tuân theo lời trong gia phả, dòng họ sẽ bị suy tàn, mau chóng..."

 

        Lời ghi chú trong gia phả, con cháu trong chi trưởng của dòng họ lão phu, phải luôn luôn chôn sâu nơi tâm khảm, coi đấy như nguồn sống chánh yếu của cả một dòng họ, không thể vì một lẽ gì lãng quên được!

        Vì vậy ngay từ đầu năm nay, thấy đã tới hạn kỳ ghi trong thế phả, lão phu đã phải tìm thầy địa lý, nhờ phúc lại tám ngôi tổ mộ ở cánh đồng làng Cốt Đang.

        Nhưng dù lão đã tốn nhiều công phu cũng như tiền bạc, cho gia nhân đi khắp mọi nơi, cố lùng kiếm cho được một nhà phong thủy chính tông, mà không hiểu vì nhà lão kém âm công, phúc đức hay sao, mà người đi tìm đã mấy tháng nay, vẫn chẳng sao kiếm nổi một thầy địa lý nào, khả dĩ có tài tìm được chánh huyệt trong một khu đất quý, chứ đừng nói là để mả kết phát nữa!

        Lão phu đang lo buồn, thì lão trượng đến chơi!

        Quả thật là đại hạnh cho dòng họ Nguyễn Nhà lão!

        Do sự tình cờ, mà cũng là duyên kỳ ngộ ấy, lão phu thành khẩn yêu cầu lão trượng, hết lòng giúp đỡ cho lão phu, làm trọn vẹn được lời ký thác của tổ tiên, thì suốt đời, lão phu thề minh tâm, khắc cốt đức độ cao dày ấy của lão trượng.

        Nói xong, quan Án Sát lại vái dài rất cung kính.

        Khách lạ vội đứng phắt lên, dơ tay ngăn cản mà vui vẻ nói rằng:

        - Đại nhân bất tất phải thủ lễ và quá khiêm nhường như vậy, khiến cho lão bị tổn thọ mất hàng kỷ đó!

        Lão không đến đây, không được nghe chuyện đại nhân thuật lại về lời ký thác trong gia phả thì thôi, chứ một khi đã tới tận chỗ, được biết rõ tính cách quan trọng của tám ngôi mả thì có lẽ nào lão phu lại không hết lòng giúp đỡ.

        Vậy ngay từ ngày mai này, yêu cầu Đại nhân hướng dẩn lão đi thăm những ngôi mộ kia một lần nữa cho thật cẩn thận, để lão mới có thời giờ nhận xét một cách chính xác hơn.

        Sáng hôm sau, qua mấy tuần trà nước, vị hưu quan làng Báo Văn thân hành hướng dẩn thầy địa lý đi thăm các ngôi tổ mộ.

        Lũ trẻ mục đồng thấy quan Án hưu trí trịnh trọng trong chiếc áo gấm dài màu da đồng, chân mang văn hài thêu chỉ ngũ sắc, lộng lẫy đi sóng vai với một ông già, dáng điệu rất quê mùa, y phục rất thô lậu, thì kinh ngạc vô cùng, bỏ mặc cho trâu ăn cỏ ngoài đồng, nô nức rủ nhau chạy theo hai người tíu tít kêu gọi nhau vui mừng như được xem đám rước thần ở trong làng vậy.

 


 

        Chúng càng ngạc nhiên hơn nữa, khi thấy hai người không noi theo con đường làng đi ra ngoài chợ, mà lại mang theo những bờ ruộng, đi ra xứ Cốt Đang ở cách xa cổng làng Báo Văn tới trên hai dặm, khu đất có an táng ,tám ngôi mộ của họ Nguyễn, cao gần như một cái gò lớn, chung quanh có một hàng rào cây khúc tần xanh om, chằng chịt những sợi giây tơ hồng vàng chói !

        Cả tám ngôi mả đều không xây đắp chi hoa mỹ, nằm song song thành một dãy dài theo hình chữ nhất, chiếm rải rác cả chiều dài của thửa ruộng cao không kém một chiếc gò !

        Điều đặc biệt, làm mọi người lưu ý hơn hết là cả tám ngôi mả, đều to cao, cỏ mọc xanh um, tươi tốt lạ thường, khác hẳn những mồ mả ở chung quanh thường xuyên bị chủ đất phát cỏ, đắp bờ mượn cớ xén cắt bớt ít nhiều những phía tiếp giáp khít ruộng đang trồng khoai hay cấy lúa cho rộng châu vi canh tác.

        Vừa hướng dẫn khách lạ đi coi khắp nơi ngoài cánh đồng, quan Án vừa giơ tay tính nhẩm từng đốt, rồi bất giác thở dài nét mặt đượm ve ưu tư, hoảng hốt nói to :

        - Mà Ât Mùi thì đúng là năm nay rồi lão trượng ạ !

        Vậy mà từ tháng giêng đến bây giờ tốn công tốn của đã khá nhiều, vẫn chưa tìm được nhà phong thủy chính tông nào, khả dỉ có đủ tài năng phúc lại những ngôi mộ này, để theo đúng lời ghi chú trong gia phả, xê dịch lại cho họp với sự di chuyển của long mạch.

 


 

        Thầy địa lý nhìn quan Án Sát hỏi gặng lại :

        - Đại nhân định tìm nhà phong thủy như thế nào ? Xê dịch tổ mộ thì cứ xê dịch, hà tất còn phải phúc lại mả cho mất công vô ích.

        Vị hưu quan, lắc đầu đáp liền không cần nghĩ ngợi :

        - Lão trượng nói thế là sai rồi. Thời buổi này, nho đạo mỗi ngày một suy vi, các môn lý, số, phong thủy cũng hầu như bị mai một lần hồi. Đốt đuốc đi tìm những thầy địa lý chính tông, ít ra cũng phải mất hàng năm mới kiếm được một người tài năng am hiểu đến nơi đến chốn cách để mả, và chọn đất, còn đa số đều mờ mờ, mịt mịt, chưa cầm vững chắc cái tróc long, chưa biết phương pháp sử dụng la kinh, cũng vỗ ngực tự nhận mình giỏi địa lý !

        Bởi sự tìm kiếm nhân tài rất khó khăn như thế, nên lão mới bày ra cách phúc duyệt lại các ngôi tổ mộ, vừa để xét nghiệm khả năng của người ta, vừa muốn được hiểu rõ hiện trạng đích xác của các ngôi tổ mộ, vì nếu gặp kẻ mạo nhận danh nghĩa là nhà phong thủy chuyên môn, tất họ không sao biết rõ được phương hướng các bộ hài cốt nằm dưới lòng đất ?

        Do đấy, lão phu mới có thể loại trừ được họ một cách dễ dàng !

       Còn trái lại, nếu họ nói đúng được vị trí an táng, của từng bộ hài cốt, như nằm nghiêng nằm ngửa hay đầu gối lên đầu, chân đạp vào đâu, đúng như lời ghi chú rành mạch trong cuốn gia phả của dòng họ Nguyễn, thì đây mới thiệt là thầy địa lý chánh tông !
        Lão phu có thể tin tưởng vào tài năng của người ấy để nhờ xê dịch mộ phần.

Đăng nhận xét

0Nhận xét
Đăng nhận xét (0)
Đọc tiếp: