Kiểu đất Ngôn Kỳ Đại Thế - nguyenhoanghy.com

0

 

Ngôi mộ thiên táng với dòng họ Lê Hữu với kiểu đất Ngôn Kỳ Đại Thế

✅ Giai thoại kiểu đất Ngôn Kỳ Đại Thế - Thiên Táng. Cứ theo thế đất này thì con cháu dòng họ Lê Hữu sẽ được đinh tài lưỡng vượng (tức là con trai của dòng họ phát kết cả hai đường văn, võ), học hành đỗ đạt cao. Họ của ông sẽ trở thành dòng họ quý tộc, chí bách dư niên (có nghĩa là sẽ phát kết trên 100 năm).
GIAI THOẠI PHONG THỦY  KIỂU ĐẤT THIÊN TÁNG
NGÔN KỲ ĐẠI THẾ PHÁT PHÚC CHO DÒNG HỌ LÊ HỮU HIỂN VỈNH 100 NĂM 
       
     Con cháu dòng họ này mấy đời đều học cao, văn chương nức tiếng trong vùng nhưng cứ hễ đi thi thì không ai đỗ đạt. Theo như truyền thuyết có thể do "mồ mả không kết phát" nên cụ tổ đời thứ 7 là Lê Hữu Dụng đã nhờ một người bạn am tường về phong thủy đặt đất cho. Ai ngờ, trời lại cho kiểu đất Ngôn kỳ đại thế, con cháu hiển vinh hơn 100 năm.


      Theo gia phả và truyền thuyết còn lưu truyền trong dòng họ Lê Hữu (tại thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) thì việc phát phúc của dòng họ có liên quan tới ngôi mộ của bà thủy tổ đời thứ 6 là Vũ Thị Yêm. Chuyện kể rằng, con cháu dòng họ Lê Hữu dù văn chương nức tiếng, được giới trí thức và quan lại đánh giá cao nhưng cứ hễ đi thi thì lại trượt. Đến đời thứ 7 có cụ Lê Hữu Dụng là người thông mình, hiếu học nổi tiếng khắp vùng. Thế nhưng đi thi vẫn không đỗ đạt gì, mấy khoa thi vẫn lỗi hẹn với bảng vàng nên chuyển sang làm nghề dạy học. 

 

           Ngôi mộ thiên táng

         Thời bấy giờ, cụ Dụng dạy học ở xa, có quen biết một người ở xã Bình Lao, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương ngày nay) có hiệu là Đồ Cẩm và là người rất am tường về phong thủy. Nhân một lần mời bạn về nhà chơi, cụ Dụng bèn than thở với Đồ Cẩm rằng: "Nhà tôi gia cảnh bần hàn nên tiếp đón có gì không chu đáo cũng mong ông lượng thứ cho". Đồ Cẩm ngạc nhiên mà hỏi rằng: "Tôi thấy ông là người tài năng, sao không chịu đi thi chiếm lấy bảng vàng. Con cháu sau này cũng nhờ phúc đó mà bớt phải chịu cảnh cơ hàn. Sao lại chịu sống cảnh khốn khó thế này".


         Nghe xong, cụ Dụng buồn bã trả lời: "Nhà tôi mấy đời nay học hành cũng khá nhưng không hiểu sao con cháu đi thi đều không đỗ đạt, không biết có phải do mồ mả không. Nghe nói, ông là người hiểu biết địa lý, nay nhờ ông xem cho một mảnh đất để táng hài cốt bà cụ nhà tôi vào đó. Hy vọng con cháu đời sau sẽ khá hơn". Nghe vậy, Đồ Cẩm hứa sẽ tìm cho một ngôi đất tốt nhưng chuyện xem huyệt đặt đất không phải một sớm một chiều. Hai người hứa hẹn và định ngày quay lại để tính chuyện dời mả cụ Vũ Thị Yêm (mẹ đẻ cụ Lê Hữu Dụng) đi chỗ khác.


         Đến ngày hẹn, Đồ Cẩm quay trở lại để cải táng hài cốt cụ Vũ Thị Yêm vào một địa điểm đã định trước. Lúc bấy giờ, do nhà nghèo không có tiền mua tiểu sành nên con cháu trong nhà lo lắm, trong khi giờ đẹp đã sắp đến mà việc chuẩn bị lại chưa xong. Thấy vậy, Đồ Cẩm nói với cụ Dụng rằng: "Nếu không có tiểu sành thì ông cứ kiếm cho tôi một cái nồi đất miệng rộng, đủ để xếp hài cốt vào là được". Nói rồi, đoàn người kéo nhau ra đồng để thực hiện công việc.


 

Ngôi mộ thiên táng của dòng họ Lê Hữu ở Hưng Yên.


         Khi ngôi mả cũ được đào lên và hài cốt được đưa vào nồi đất xong, con cháu chuẩn bị mang đi cải táng thì trời nổi gió lớn, mây đen ùn ùn kéo tới, cát bụi bay mù mịt rồi trời đổ cơn mưa như trút khiến cho đoàn người không thể mang đi cải táng được. Ngôi huyệt mới đào thì ngập đầy nước nên con cháu đành để tạm nồi hài cốt vào ria lũy tre làng, đoạn gần Cổng Hậu đợi tạnh mưa sẽ đem chôn. Khi tạnh mưa, mọi người đến chỗ nồi hài cốt để mang đi cải táng thì một chuyện lạ đã xảy ra. Xung quanh đó, mối đã đùn lên thành một cái gò lớn lấp kín cả nồi hài cốt. Cho là điềm lạ nên con cháu định cứ thế mà đắp đất thành mộ chứ không cải táng ở địa điểm ban đầu nữa.


         Thế nhưng, Đồ Cẩm cẩn thận hơn. Sau khi đo đạc, xem xét hướng đất, hướng gió và đối chiếu sách vở tỉ mỉ, ông này reo lên rằng: "Ngôi mộ thiên táng này quả là vô cùng hiếm gặp. Ba mặt Bắc, Tây, Đông của làng này đều có con sông nhỏ uốn quanh trông hình tựa một trái hồ lô lớn. Nồi hài cốt đã được đặt vào nơi huyệt kết, là kiểu đất Ngôn kỳ đại thế, lại dựa vào thế đất hồ lô nên long mạch táng ở đáy. Kết cục, thế đất có hình thiên mã, có ngựa lớn, ngựa nhỏ chầu về. Bên ngoài thì có kim quy ngưỡng ngọa (tức 2 con rùa nằm chầu), bên trong thì có thượng thư án, bên thì tả tượng, bên thì hữu mã cùng chầu.


         Cứ theo thế đất này thì con cháu dòng họ Lê Hữu sẽ được đinh tài lưỡng vượng (tức là con trai của dòng họ phát kết cả hai đường văn, võ - PV), học hành đỗ đạt cao. Họ của ông sẽ trở thành dòng họ quý tộc, chí bách dư niên (có nghĩa là sẽ phát kết trên 100 năm)". 

    
           Dòng họ khoa bảng

         Lời tiên tri của ông Đồ Cẩm đã sớm trở thành hiện thực khi người con cả của Lê Hữu Dụng là Lê Hữu Thời đi thi Hương đỗ nhất Cử, thi Hội đỗ Tam trường, được bổ làm tri huyện huyện Chí Linh. Người con thứ tư Lê Hữu Danh (1642 - ?) đỗ Nhị Giáp Tiến sĩ (tức Hoàng Giáp) khoa Canh Tuất (1670). Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ. Khi mất, ông được tặng chức Tả thị lang, tước Văn Uyên bá.

         Kế đó, ba người con của Lê Hữu Danh là Lê Hữu Hỷ, Lê Hữu Mưa, Lê Hữu Kiều và hai người cháu nội là Lê Trọng Tín, Lê Hữu Dụ (*) đều đỗ tiến sĩ. Đặc biệt, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (con Tiến sĩ Lê Hữu Mưu) được suy tôn là đại danh y Việt Nam. Những bài thuốc và quan điểm chữa bệnh cứu người của ông vẫn còn sáng mãi với thời gian.

         Như vậy, trong lịch sử, dòng họ Lê Hữu ở Liêu Xá đã đóng góp cho dân tộc 6 vị tiến sĩ, 5 giải nguyên, 20 cử nhân, 20 tú tài, 1 quận công, 1 tước hầu... Đúng là dòng họ quý tộc "chí bách dư niên".

 


Đại danh y Lê Hữu Trác là cháu nội cụ Lê Hữu Danh - người đỗ khai khoa cho dòng họ.


         Sự tích "giường tiến sỹ"

       Trao đổi thêm , ông Lê Hữu Khoát (tộc trưởng dòng họ Lê Hữu, làng Liêu Xá) cho biết: "Sau khi được ngôi mả thiên táng, con cháu dòng họ Lê Hữu quả nhiên nối nhau thi đỗ làm quan. Người đỗ khai khoa cho dòng họ là cụ Lê Hữu Danh. Cụ là con trai của cụ Lê Hữu Dụng, người đã nhờ thầy Đồ Cẩm cải táng mả và gặp ngôi huyệt kết phát. Cụ Danh đỗ Hoàng Giáp khoa thi Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị 8 (1670) đời vua Lê Huyền Tông. Cụ làm quan đến chức Hiến sát sứ, sau mất ở nơi sở tại. Sự tích "giường tiến sỹ" cũng liên quan tới người đỗ khai khoa của dòng họ chúng tôi".

         Chuyện rằng, khi cụ Danh vinh quy bái tổ về làng đều có quân lính đi dẹp đường, cờ lọng rất là uy nghiêm. Người dân hai bên đường đổ ra xem mặt quan Hoàng Giáp và đứng dẹp thành hai đường lấy lối cho quan đi. Tuy nhiên, có một người con gái cứ hiên ngang đi giữa đường như không biết chuyện gì đang diễn ra. Thấy vậy, lính dẹp đường đến định đuổi đi thì người con gái này dõng dạc đáp rằng: "Đấy Hoàng Giáp thì đây cũng một tổ tiến sỹ". Vừa hay lúc cụ Danh tới nơi và nghe thấy câu này. Lấy làm hiếu kỳ, cụ bèn giữ lại hỏi nguyên do.

         Sau mới biết, người con gái này tên là Dương Thị Duệ (người thôn Ngọc Quá, xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh nay thuộc huyện Văn Lâm, Hưng Yên) vốn là cháu gái quan thượng thư Dương Hồ, cháu ngoại của cụ Phạm Công Trứ (người xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên ngày nay. Cụ làm quan tới chức Tể tướng thời Lê Trung Hưng).

         Cho là có duyên gặp gỡ nên thay vì tiếp tục vinh quy về làng, cụ Dụng tìm vào nhà quan thượng thư họ Dương kể chuyện và ngỏ lời xin làm thứ thất. Sau khi nghe chuyện, Dương công cũng cho là duyên lạ nên đã đồng ý gả cháu gái cho cụ Danh. Sau lại sai người chuẩn bị lễ nghi chu đáo, tổ chức lễ vu quy ngay hôm đó rồi cho vinh quy về làng cùng một ngày.

 


Lễ vu quy được tổ chức ngay hôm đó rồi cho vinh quy về làng cùng một ngày.
  

         Người con gái tên Duệ này sinh cho cụ Danh 5 người con thì có tới 3 người đều đỗ tiến sỹ và giữ trọng trách lớn trong triều. Vì vậy, dân gian có câu ca rằng : "Gái họ Dương là giường tiến sỹ" để ca ngợi công đức của người con gái ấy.

         Ba người con trai của cụ bà Dương Thị Duệ đỗ tiến sỹ là Lê Hữu Hỷ, Lê Hữu Mưu và Lê Hữu Kiều. Lê Hữu Hỷ, đậu tiến sỹ năm Chính Hòa 21 đời vua Lê Hy Tông (1701) làm quan tới chức Thừa chính sứ Thái Nguyên, tước Phiên đình bá. Lê Hữu Mưu (1685 - 1739) đỗ tiến sỹ khoa thi Canh Dần (1710) đời vua Lê Dụ Tông. Lê Hữu Mưu từng được vào điện Kinh Diên dạy học cho nhà vua, lúc mất được phong làm Tả thị lang bộ Công, tước Phu đình bá. Lê Hữu Kiều (1691 - 1760) làm quan tới chức Thượng thư bộ Lễ, tước Liêu Đình hầu. Khi mất, Lê Hữu Kiều được tặng chức Thái phó, tước Liêu quận công./.

Đăng nhận xét

0Nhận xét
Đăng nhận xét (0)
Đọc tiếp: